20.5.68
Tiễn chân những bệnh nhân lên đường trở về đội ngũ chiến đấu, lẽ ra chỉ là niềm vui, vậy mà cả
người đi lẫn người ở đều buồn thấm thía. Hơn một tháng nằm lại bệnh xá, những bệnh nhân ấy
đã gắn bó với mình không phải chỉ là tình thương giữa người thầy thuốc với bệnh nhân mà trong
tình cảm ấy có cả nỗi cảm thông sâu sắc giữa những người bạn. Hôm nay họ đi rồi, người ra đi
còn nhớ chăng những đêm dài trò chuyện những đêm mình đi trực. Nhớ chăng những buổi cả cơ
quan đi cõng gạo họ đã cùng mình xử trí một cas thương, họ làm như những nhân viên thực thụ,
đêm đến trong ánh đèn dầu họ ngồi hí hoáy lau dụng cụ… những ngày ấy vui sao! Bao giờ gặp
lại nhau và có còn được gặp nhau không hở những người bạn mến thương?
20.7.68
Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi người trong bệnh xá đều hết
sức vất vả. Riêng mình trách nhiệm càng nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng
tinh mơ cho đến đêm khuya. Khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một mình
mình vừa phụ trách bệnh xá, vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng vất vả và cũng còn nhiều
khó khăn trong công việc, nhưng hơn bao giờ hết mình cảm thấy rằng mình đã đem hết tài năng
sức lực của mình để cống hiến cho cách mạng. Đôi mắt người thương binh hôm nào đau nhức
tưởng như bỏ hôm nay cũng đã sáng lại một phần. Cánh tay anh bộ đội sưng phù đe dọa chảy
máu bây giờ cũng đã lành lặn. Những cánh tay xương gãy rời cũng đã liền lại… Đó chính là nhờ
sức lực của mình và những người y tá đêm ngày lăn lộn trong công tác bên giường bệnh.
Và với những học sinh, mình cũng đã đem lại những điều quí giá trong lý luận về y học. Mình
đến với lớp không phải chỉ vì tinh thần trách nhiệm mà bằng cả tình thương của một người chị
đối với những đứa em đã chịu biết bao thiệt thòi đau khổ vì bọn bán nước nên không tìm đến với
khoa học được. Thương biết mấy những Thuận, những Liên, những Luận, Xuân, Nghĩa mỗi
người một hoàn cảnh nhưng đều rất giống nhau: rất ham học, rất cố gắng để đạt mức hiểu biết
cao nhất.
25.7.68
Một buổi ngồi bên giường bệnh của Lâm. Lâm bị một mảnh đạn cối cá nhân xuyên vào tủy sống,
mảnh đạn ác nghiệt đã giết chết một nửa người Lâm – từ nửa ngực trở xuống. Lâm hoàn toàn bại
liệt, lở loét và biết bao nhiêu đau đớn hành hạ Lâm.
Lâm năm nay hai tư tuổi, là một cán bộ y tế xuất sắc của Phổ Văn. Ban dân y huyện mới rút Lâm
về bổ sung chưa được một tháng, trong lần đi công tác vừa qua địch càn đến, Lâm xuống công sự
nhưng khi tay anh vừa mở nắp công sự thì bọn Mỹ đã đến sát sau lưng, một mảnh đạn nhỏ đã
11
giết hại đời Lâm một cách đau đớn. Lâm chưa chết nhưng chỉ còn nằm để chờ chết. Đứt tủy sống
trong điều kiện ở miền Bắc còn bó tay nữa là ở đây.
Lâm biết điều đó nên đau khổ vô cùng. Chiều nay ngồi bên Lâm, Lâm đưa lá thư của Hạnh
(người vợ trẻ của Lâm) cho mình coi rồi nói khẽ với mình: “Chị ơi, các chị tận tình, gia đình tận
tình nuôi em để làm gì? Trước sau em cũng chết, em có sống cũng chỉ làm khổ các chị và gia
đình mà thôi”. Một giọt nước mắt lăn dài trên gò má gầy ốm của Lâm.
Thương Lâm vô cùng mà chẳng biết nói sao. Nếu đặt mình vào hoàn cảnh của Lâm chắc mình
cũng nói như vậy mà thôi. Nhưng không lẽ không động viên Lâm… Ôi! Chiến tranh! Sao mà
đáng căm thù đến vậy và đáng căm thù vô cùng là bọn quỉ hiếu chiến. Vì sao chúng lại thích đi
tàn sát bắn giết những người dân hiền lành, giản dị như chúng ta? Vì sao chúng đang tâm giết
chết những thanh niên còn đang tha thiết yêu đời, đang sống và chiến đấu với bao mơ ước như
Lâm, như Lý, như Hùng và nghìn vạn người khác nữa?
…68
Một cas cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ mình cũng đã mổ thăm dò nhưng
rất tiếc rằng K đã sang giai đoạn di căn. Không thể làm gì hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót
nhìn bệnh nhân đi dần đến cái chết. Chiều nay đứng bên giường bệnh anh, lòng mình đau như
cắt. Anh nói với mình miệng cố cười mà những giọt nước mắt vẫn tràn trong đôi mắt của anh:
“Tôi không oán trách gì đâu, biết chị và các đồng chí trong bệnh xá đã tận tình cứu chữa nhưng
bệnh tôi không thể nào khỏi được. Thì đành vậy. Nếu tôi còn ở đây thì rồi sẽ ra đồi sim an nghỉ
với các đồng chí. Nếu tôi về dưới đó thì cũng chỉ được nhìn ông bà già một lần nữa rồi cũng
xuống đất thôi”.
Biết nói gì với anh đây, mình đứng im hổ thẹn và tủi cực vô cùng. Đành rằng dù ở đâu rồi cũng
đành bó tay trước bệnh của anh nhưng còn có điều kiện để kéo dài thêm chút ít cuộc sống của
anh. Còn ở đây mình như tên lính bại trận giơ hai tay để cho kẻ thù tước bỏ vũ khí.
9.1.69
Năm nay Bốn hai mốt tuổi. Hai mốt tuổi bảy lần bị thương trong chiến đấu. Người trung đội
trưởng trinh sát trẻ tuổi ấy đã để lại trong mình những cảm nghĩ không bao giờ có thể quên.
Mình gặp Bốn lần đầu tiên khi Bốn vào nằm bệnh viện với một vết thương nhỏ nơi chân. Mấy
hôm sau, chân chưa lành Bốn đã ra viện và hơn một tháng sau mình lại đón Bốn vào viện. Vết
12
thương xuyên qua khớp vai mất nhiều máu nên Bốn xanh xao mệt lả, nhưng sau khi mổ xong,
vừa mới tỉnh nụ cười tinh nghịch lại nở trên đôi môi nhợt nhạt của Bốn.
Vết thương đau đớn nhiều nhưng Bốn không rên la mà chỉ lo một điều: có còn chiến đấu được
nữa hay không? Những lần đi thăm bệnh mình khẽ vuốt trên mái tóc người thương binh trẻ tuổi
và nói khẽ với Bốn rằng: Em hãy yên tâm, chắc rằng em sẽ còn cầm súng chiến đấu một cách
vững vàng. Và mới hôm nào đây gặp lại Bốn trên đường hành quân, vai mang khẩu AK, nhìn
thấy mình từ xa nó mừng rỡ reo lên:
“Chào bác sĩ! Báo cáo bác sĩ, tay em bình thường rồi”, và nó khoa tay lên khoe với mình khớp
vai đã hoạt động bình thường. Mình cười vui khi nhìn nước da khỏe mạnh hồng hào và nụ cười
tinh nghịch của chàng bộ đội giải phóng quân ấy.
Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt. Em nằm im lìm không rên la. Một chân đã bị mìn tiện
cụt, máu thấm ướt hết áo quần. Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với tình thương, mình đã cùng
các đồng chí hết sức cứu chữa. Cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây giờ chắc sống 80% rồi
đấy”. Riêng mình vẫn lo lắng vì Bốn mất máu quá nhiều. Mạch vẫn rất nhanh 140-150 nhưng
cũng nhiều hi vọng.
Cuối cùng Bốn đã không vượt qua nổi. Máu ra nhiều quá nên em không còn đủ sức. Bốn ơi, máu
em đã thấm đỏ trên mảnh đất quê hương, máu em đã chảy dài trên đường em đi chiến đấu. Tim
em đã ngừng đập cho trái tim Tổ quốc muôn đời đập mãi. Bốn chết rồi, hai mắt nhắm nghiền
như trong giấc ngủ. Ngồi bên Bốn vuốt nhẹ mái tóc em mà mình tưởng như em còn sống, nước
mắt mình từng giọt rơi xuống tóc em. Không! Bốn không chết đâu, Bốn sẽ còn sống mãi trong
lòng mình và những đồng đội đang cùng em trong cuộc chiến đấu sinh tử này.
“Tôi xin cám ơn thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu (người phiên dịch tiếng Anh cho đơn vị tình
báo quân sự số 635 của quân đội Mỹ biên chế bên cạnh lữ đoàn bộ binh số11, sư đoàn bộ
binh 23), người đã cứu cuốn nhật ký của chị tôi khỏi bị quẳng vào đống lửa bởi anh đã
nhận ra trong cuốn sổ này đã chứa đựng lửa rồi để anh trao lại nó cho Fred như một lời ủy
thác từ chị tôi. Anh Hiếu ơi, nay anh ở đâu? Nếu đọc được những dòng này xin anh hãy lên
tiếng, cho chúng tôi được nhìn vào mắt anh, để nói với nhau rằng tiếng nói của tình yêu và
khát vọng hòa bình có thể vượt qua mọi chiến tuyến để đến với những trái tim tốt lành”.
ĐẶNG KIM TRÂM
Những ngày khốc liệt
TT – 28.4.69
Dù đã dự kiến trước nhưng khi tình huống xảy ra vẫn có
những cái lận đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần
cuộc họp ban lãnh đạo bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương
binh nặng và đi lại khó khăn chuyển sang trường Đảng vì
thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh xá.
Chưa đến 6 giờ mình giục anh em chuyển thương binh đi rồi
cũng tay xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc
trường Đảng, mồ hôi ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ hôi
được, mình đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca thương còn lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai, mình nghĩ thầm chắc địch đã
đến trạm trực nên quay vào báo cho thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm gì thì anh
em du kích dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đã vào đến máng nước rồi và tất cả nhân dân
hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nhìn lại còn năm cas phải khiêng mà chỉ
có mình, Tám và mấy đứa học sinh đợt I đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được,
phải cố gắng hết sức mình khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Mình nói mà lòng thấy băn
khoăn khi trước mặt mình chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm, mảnh khảnh. Tình thế nguy nan,
Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin địch đã vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, còn lại Kiệm – một thương binh cố định gãy xương đùi. Không
biết làm sao mình gọi Lý – con bé học sinh – lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em
không thể nào nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được một khúc,
mình đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại gặp Minh, Cơ – hai đứa vừa thở
vừa báo tin địch đã bắn chết đồng chí Vận – thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống
hố trốn tạm một nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu một mình Vận, còn cán bộ
thì vắng chín đồng chí.
Mệt, đói run chân nhưng mình và các đồng chí vẫn vô cùng bình tĩnh. Dù sao cũng đã trưởng
thành rồi qua mấy năm ác liệt. Bốn giờ đến địa điểm.
14
Hai năm tròn rồi đó, cũng vào tháng tư, cũng giữa mùa trăng mình về nhận công tác tại Đức Phổ
giữa lúc bệnh xá đã tan tành sau một cuộc oanh tạc. Bây giờ lại tháng tư… nắng tháng tư ở miền
Nam chói chang. Và nỗi căm thù cũng nóng bỏng như ánh nắng mùa hè đó. Chiều nay đứng trên
một đỉnh núi cao nhìn về khu vực bệnh xá cũ thấy khói bốc lên nghi ngút mà mình rưng rưng
nước mắt. Vậy là biết bao nhiêu mồ hôi công sức, bao nhiêu của cải tài sản nhân dân dành dụm
nuôi thương binh từ đó đến nay đã cháy hết thành tro bụi!
4.6.69
Vẫn là những ngày căng thẳng, địch đổ quân sát bên nhà. Chúng la hét,
chặt cây ầm ĩ cả khu rừng. Bệnh xá im lìm căng thẳng đến tột bậc.
Đang công tác ở Phổ Cường, nghe báo tin mình lặng người lo lắng, chén
cơm bưng trong tay không sao ăn tiếp được nữa. Chẳng lẽ cứ thế này
mãi sao. Vừa xây dựng được mấy bữa lại lo chạy, bao giờ mới tiếp tục
được nhiệm vụ… (không rõ chữ)? Lo buồn và uất ức lạ. Có cách nào chứ
không lẽ bó tay chạy dài mãi sao?
5.6.69
Địch triển khai thêm, không thể ở đó được nữa, đêm nay đa số cán bộ và
thương binh dẫn nhau chạy xuống Phổ Cường. Tối không trông rõ mặt người nhưng có lẽ ai
cũng cảm thấy rất đầy đủ những nét đau buồn trên khuôn mặt từng cán bộ và thương binh. Mình
lo đi liên hệ giải quyết công tác đến khuya mới về, thương binh đã đi ăn cơm xong, nằm ngổn
ngang trên thềm nhà Đáng, một vài người đã ngủ, số còn lại khẽ rên vì vết thương đau nhức. Còn
lại trên đó ba cas cố định chưa có người khiêng, một số cán bộ lãnh đạo còn trên đó, mình cần
trở về. Trở về lúc này thật gay go, không hiểu địch nằm ở đâu. Nhưng biết làm sao, yêu cầu công
tác đòi hỏi mình phải trở về, dù chết cũng phải đi.
Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt. Thuận ngồi lặng thinh bên mình, em không nói một lời
nào, mãi đến lúc chia tay em mới nói một câu ngắn: “Chị làm sao chứ em lo quá đi…” và mình
thì không nói hết một câu: “Chị gửi balô cho em, trong đó có quyển sổ…”, muốn nói tiếp rằng
nếu chị không về nữa thì em giữ quyển sổ đó và sau này gửi về gia đình. Nhưng mình không nói
hết câu.
Trong ánh trăng mờ hai chị em đều đọc được trong đôi mắt người thân của mình một nỗi buồn ly
biệt. Em đi rồi và mọi người khác cũng đã đi hết, còn một mình trên chiếc thềm vắng nhà chị
15
Tính, không hiểu sao nước mắt bỗng tràn trên đôi má của mình. Khóc ư Thùy? Đừng chứ, hãy
dũng cảm kiên cường trong mọi tình huống, hãy giữ mãi nụ cười trên môi dù trăm nghìn vạn khó
khăn nguy hiểm đang đe dọa quanh Thùy.
29.7.69
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức. Sáng nay người ta đem đến cho mình một thương binh toàn
thân bị lân tinh đốt cháy. Đến với mình sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn còn nghi
ngút cháy trên người nạn nhân. Đó là một cậu bé 20 tuổi, đứa con trai duy nhất của một chị cán
bộ xã mình ở.
Một tai nạn rủi ro làm quả pháo lân tinh nổ khiến cậu bị bỏng nặng. Không ai còn nhận ra cậu bé
xinh trai mọi ngày nữa. Đôi mắt đen vui cười hôm nay chỉ còn là hai hốc nhỏ, mi mắt đã chín
vàng, khói lân tinh vẫn còn bốc lên khét lẹt. Trông cậu ta giống như đem thui vàng trong lò ra.
Mình đứng lặng người trước cảnh đau lòng đó.
Mẹ cậu khóc mếu máo, hai bàn tay run rẩy sờ khắp người con, từng mảng da bong ra, cong lên
như miếng bánh tráng. Em gái và chị gái cậu vừa săn sóc cậu mà nước mắt ròng ròng chảy, còn
một người con gái thì sững sờ ngồi cạnh cậu, đôi mắt dịu hiền đờ đẫn lo âu, từng lọn tóc đen bết
mồ hôi dính trên đôi má đỏ bừng vì xúc động và vì mệt.
Từ (tên cô gái đó) là người yêu của Khánh (tên cậu bé đó). Cô vừa khiêng Khánh xuống đây.
Nghe nói cần có serum truyền, Từ đã lội sông đi mua ngay. Nước sông đang lên, không biết bơi
nhưng Từ vẫn băng qua sông, tình yêu đã giúp Từ sức mạnh. Bây giờ Từ ngồi đó cạnh Khánh
lặng yên, nhẫn nại.
Vẻ đau khổ hằn lên trên vầng trán ngây thơ của cô gái xinh đẹp – nhìn cô mình muốn viết một
bài thơ về tội ác của chiến tranh, tội ác đã bóp chết triệu tình yêu trong sáng, bóp chết triệu hạnh
phúc của con người nhưng mình không viết được. Ngòi bút của mình không sao viết hết dù đây
là một trường hợp mà mình đã thấy bằng tất cả giác quan và tình cảm của mình.
30.7.69
Mười hai giờ khuya, anh Kỷ từ cánh Nam ra báo cho mình một tin đau xót: địch đã tập kích vào
bệnh xá một cách hết sức bất ngờ. Liên đã bị chúng bắn chết trong lúc dẫn thương binh chạy.
Anh em thương binh không hiểu ai còn ai mất…
16
Trong ba tháng trời, bốn lần bệnh xá bị đánh phá. Lòng mình cháy bỏng lo âu. Liên ơi, hôm nào
tạm biệt Thùy (Trâm), Liên còn hôn Thùy và dặn đi dặn lại rằng Thùy phải cảnh giác, nhưng
hôm nay người ngã xuống trước lại là Liên, cô gái xinh xắn và xuất sắc trong công tác, cô gái
cưng của bệnh xá không còn nữa. Liên ơi, còn sống ngày nào Thùy thề sẽ trả thù cho Liên, cho
Lý và cho cả triệu người đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu sinh tử này.
29.3.70
Lần đầu tiên đào huyệt chôn một người đồng đội, những nhát cuốc của mình bổ xuống đá làm
tóe lửa như nỗi căm thù đang bốc cháy trong lòng mình. Hôm qua trong lúc đi cảnh giới về gặp
địch, Thành đã bị chúng bắn chết ngã ngay tại suối trước ngõ vào nhà mình, và anh Xuất bị
chúng bắn bị thương rồi hạ tàu bay chở đi. Chiếc quần của anh chúng rọc nát còn vứt lại một
bên… Chưa đầy ba tháng cơ quan mất ba người!
Huyệt đào chưa xong mọi người đã khiêng Thành về. Qua một ngày rồi mà máu vẫn còn chảy
ướt đỏ tấm drap quấn quanh Thành. Mình nhìn không rõ mặt Thành lắm, chỉ thấy đôi mắt đã
nhắm và nước da nhợt nhạt. Lúc sống Thành có nhiều nhược điểm làm mình không ưa, nhưng
bây giờ khi khỏa đất lấp lên thân hình người đồng đội ấy mình không cầm được nước mắt. Vậy
đó, hãy ráng mà đùm bọc thương yêu nhau khi còn sống, chứ khi đã chết rồi có khóc thương
cũng chỉ là những giọt nước mắt nhỏ trên nấm đất vô tri vô giác mà thôi.
“…Khi rời Hà Nội để dấn thân vào cuộc chiến, Thùy (Trâm) chưa biết chiến tranh là thế nào.
Hơn ba năm ở Đức Phổ, những điều chị viết trong nhật ký đã thay đổi, chị đã trưởng thành.
Những điều chị học được càng củng cố vững chắc thêm lòng quyết tâm đã được gia đình nuôi
dưỡng từ nhỏ. Chị học được những điều mà tất cả chúng ta đều cần phải học…
Những bài học về danh dự, những bài học về lòng trắc ẩn, tinh thần trách nhiệm, những bài học
về sự tận tụy với lý tưởng, và những bài học mà chị đã nêu lên một tấm gương về tình yêu đối với
mọi người, với cái đẹp và với con người…
Cho đến lúc này, tôi là người đã đọc đi đọc lại hai cuốn nhật ký ấy nhiều hơn ai hết. Trước đây
tôi đã nói với bà và giờ đây tôi xin nói lại: tôi không hề thấy trong đó có bất cứ điều gì khiến bà
hay một ai khác phải khó xử.
17
Những lời bày tỏ về tình yêu của chị cũng như những lời gọi tha thiết hướng về gia đình khiến
bất cứ ai từng được đọc qua đều phải xúc động. Con số các trận đánh và sự chăm sóc của chị
đối với các thương binh làm chúng ta trở nên xoàng xĩnh…” (thư ngày 28-5-2005, Robert
Whitehurst).
18
Cuộc sống ở bên cái chết
TT – 4.8.68
Vẫn là những ngày công tác dồn dập, khó khănvẫn đếntừng giờ từng ngày, vậy mà sao lòngmình lại thấy ấm áp niềm tin.Phải chăng nụ cười trên đôi môi còn thoáng nét đau buồn của người học sinh trẻ ấy làm mình dịu đi mọi suy nghĩ về riêng tư?
Phải chăng vì tiếng hát lạc giọng vẫn vang lên khi lòng người trai
ấy vẫn đang rớm máu vì hai cái tang đè nặng trên ngực, đã là một
lời nhắc nhở mình hãy học tập tinh thần lạc quan kỳ diệu đó. Vâng, tôi xin học tập và học tập
không ngừng để giữ vững niềm tin cách mạng mà các đồng chí đã dạy tôi bằng cuộc sống chiến
đấu kiên cường của các đồng chí.
Và mình đã vui, lời ca lại cất lên sau những giờ lao động mệt nhọc.
Lòng sung sướng biết bao khi thấy rằng có rất nhiều đôi mắt nhìn mình cảm thông thương yêu
mến phục. Đó là đôi mắt của những học sinh mong đợi mình lên lớp. Đó là đôi mắt của các bệnh
nhân mong mình đến bệnh phòng… Vậy là đủ rồi Thùy ạ, đừng đòi hỏi cao hơn nữa. Cả Đức Phổ
này đã dành cho mình một tình thương yêu trìu mến. Đó là một ưu tiên rất lớn rồi.
Chị Hai về mang tin buồn: anh Dũng đã chết vì bị Mỹ bắt sống và giết tại chỗ.
Đau xót biết chừng nào!
Không lẽ quyển sổ nhỏ này cứ ghi tiếp mãi những trang đầy máu hay sao. Nhưng Thùy ơi! Hãy
ghi đi, ghi cho đầy đủ tất cả những máu xương, mồ hôi nước mắt của đồng bào ta đã đổ 20 năm
nay. Và ở những ngày cuối của cuộc đấu tranh sinh tử này, mỗi sự hi sinh càng đáng ghi đáng
nhớ nhiều hơn nữa. Vì sao ư? Vì đã bao nhiêu năm rồi ta chiến đấu hi sinh và niềm hi vọng đã
như một ngọn đèn rực sáng trước mắt, ở cuối đoạn đường, hôm nay gần đến đích thì ta ngã
xuống…
14.8.68
Buổi chiều hôm ấy 26-1-1967 mình rời Phổ Hiệp ra đi. Sân nhà Thường đông nghịt những người
đến tiễn đưa mình. Xúc động làm mình lúng túng, chẳng biết làm gì, mình ngồi xuống cạnh mẹ
Thường bốc củ bỏ vào thúng. Lúc ngẩng lên mình bỗng sửng sốt vì một đôi mắt đăm đăm nhìn đôi mắt đen to rất hiền, long lanh nước mắt. Đôi mắt nhìn mình buồn vô hạn và tràn ngập
một tình thương yêu thiết tha. Đó là đôi mắt của Khiêm.
Mình quen Khiêm trong những ngày ác liệt của mùa khô 1967 khi mình về công tác tại Phổ
Khánh. Người giáo viên trẻ ấy đã đến với mình bằng cả tình thương mến và cảm phục rất chân
thành. Tâm hồn những đứa đã qua thời học sinh có những nét dễ cảm thông nhau. Những ngày
nằm dưới công sự mình kể cho Khiêm nghe về Pavel và Ruồi Trâu, về những bài thơ mình yêu
thích.
Anh viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Khiêm cũng rất thích bài Núi Đôi, Quê hương.
Rồi Khiêm kể cho mình nghe cuộc đời học sinh vào tù ra tội của Khiêm. Khiêm đã ở tù ba năm,
đi khắp nhà lao tỉnh, Huế… Bọn giặc đánh đập nhiều lần làm Khiêm gầy yếu.
Mới đầu chỉ là thân với nhau, nhưng sau mình trở nên thân với Khiêm bằng một tình bạn rất đỗi
trong trắng và chân thành. Công tác đồng bằng được một thời gian mình về căn cứ. Từ buổi xa
Khiêm đến nay gần một năm rồi nhưng mình vẫn cảm thấy có một đôi mắt đen buồn, long lanh
nước mắt đang nhìn mình trong buổi chia tay.
Ai có ngờ lần chia tay đó lại là vĩnh biệt. Khiêm đã chết rồi! Trong một buổi đi càn, giặc Mỹ đã
tìm thấy công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu đạn duy nhất
trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỉ khát máu sợ hãi nằm rạp xuống.
Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết đã câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo
Khiêm và đến băm nát người Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm
giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát. Những hạt cát của quê hương
quyện vào mái tóc của người thanh niên anh dũng. Chiếc áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và
loang lổ máu.
Chiếc áo ấy Khiêm đã mặc hôm đầu tiên gặp mình, cũng chiếc áo ấy Khiêm đã cùng Thùy len lỏi
trên những con đường nhỏ hẹp đầy gai lưỡi hùm… Và cũng chiếc áo ấy một đêm trăng đẹp từ
Phổ Khánh trở về, gió lạnh từ biển thổi vào làm Khiêm khẽ run.